Thời gian: Thu Oct 21, 2010 4:06 pm |
---|
| | Tô.production
| | Tổng số bài gửi : 2029 Points : 2100016557 Được cảm ơn : 122 Join date : 12/10/2010 Age : 31 Đến Từ Lớp : Lớp 10T1A
| | |
| Tiêu đề: Đáp Án Bài Tập Môn INTERNET | |
1. SLIP ( Serial Line Internet Protocol): Giao Thức Internet Đơn Tuyến
Giải thích VN: Khi một hệ thống TCP/IP kết nối với một hệ thống TCP/IP khác thông qua kết nối đơn điểm - điểm (modem) thì cần phải có một vài cách để truyền những gói IP qua liên kết đơn. Cơ bản, những gói IP sẽ được đặt trong các khung (frame) để đi qua các liên kết đơn này. Hai hệ thống đã được dùng trong kết nối Internet cho những dạng kết nối sau: SLIP và PPP (Giao thức Point - to - Point). Cả hai giao thức này đều làm những việc như nhau, nhưng SLIP chỉ có thể mang các gói IP trong khi PPP có thể mang cả những gói giao thức khác, bao gồm cả DECnet, IPX (Internetwork Packet Exchange - Trao đổi gói Internet) và AppleTalk do nó có thêm phần nhận dạng giao thức. SLIP được thiết kế trước PPP. SLIP có thể cung cấp sự kết nối giữa các máy chủ, các tuyến và các trạm thông qua đường kết nối phù hợp cho nhiều tốc độ modem bao gồm cả modem mới 54K. Tuy nhiên, nó chỉ cho phép truyền bất đồng bộ chứ không cho phép truyền đồng bộ trong khi PPP cho phép truyền đồng bộ. Trong hầu hết các trường hợp, người ta chuộng PPP hơn.
2. PPP ( Point - to - Point): Trong mạng máy tính, Point-to-Point Protocol (hoặc PPP) là một giao thức liên kết dữ liệu, thường được dùng để thiết lập một kết nối trực tiếp giữa 2 nút mạng. Nó có thể cung cấp kết nối xác thực, mã hóa việc truyền dữ liệu...
PPP được sử dụng bằng nhiều kiểu mạng vật lý khác nhau, bao gồm cáp tuần tự (serial cable), dây điện thoại, mạng điện thoại, radio và cáp quang giống như SONET. Đa phần các nhà cung cấp dịch vụ Internet đều sử dụng PPP cho khách hàng để truy cập Internet. Hai kiểu đóng gói dữ liệu của PPP là PPPoE (Point-to-Point Protocol over Ethernet) và PPPoA (Point-to-Point Protocol over ATM), chúng được sử dụng bởi các nhà cung cấp dịch vụ Internet để kết nối tới dịch vụ Internet.
3. FTP ( File Transfer Protocol): FTP (viết tắt của tiếng Anh File Transfer Protocol, "Giao thức truyền tập tin"), dịch vụ truyền tệp tin FTP cho phép người sử dụng nhận các tệp tin từ máy tính ở xa hay chuyển các tập tin tới đó. Dịch vụ này sử dụng giao thức truyền tệp FTP thuộc họ giao thức TCP/IP làm công cụ truyền tệp. Các tệp tin có thể ở dạng: tập tin văn bản, tư liệu, cơ sở dữ liệu, chương trình ứng dụng hay hệ điều hành máy tính, tập hình ảnh tĩnh hay động (video, movie), tập âm thanh thoại hay nhạc (sound, music). Để sử dụng các dịch vụ này, trên máy tính của người sử dụng phải có phần mềm FTP (FTP-client) và đăng lý quyền sử dụng dịch vụ (account) với máy tính dịch vụ FTP ở xa (FTP-server) cho phép truyền tải các tệp tin. Các nhà cung cấp dịch vụ thường tạo lập các máy tính dịch vụ FTP giấu tên kết nối với các máy tính chủ ở xa và chuyển tải các tệp tin từ các máy chủ về mà không cần phải đăng ký quyền sử dụng (account) trên các máy chủ đó. Các máy dịch vụ FPT dấu tên là một trong những phương tiện chính để phân phát các tài nguyên phần mềm và thông tin tư liệu trên toàn bộ Internet. Trên máy tính dịch vụ FTP dấu tên lưu trữ phần mềm khác nhau, như các hệ điều hành cho các hệ thống máy tính khác nhau (UNIX, IBMPC, Macintosh...), các hệ ứng dụng, truyền thông các tập nhạc, phim ảnh và nhiều thông tin tư liệu. Hầu hết chúng đều cung cấp miễn phí cho người sử dụng...
4. Telnet ( TELecommunication NETwork): TELNET (viết tắt của TELecommunication NETwork cũng có thể là TErminal NETwork hay TELetype NETwork) là một giao thức mạng (network protocol) được dùng trên các kết nối với Internet hoặc các kết nối tại mạng máy tính cục bộ LAN. Tài liệu của IETF, STD 8, (còn được gọi là RFC 854 và RFC 855) có nói rằng:
Mục đích của giao thức TELNET là cung cấp một phương tiện truyền thông chung chung, có tính lưỡng truyền, dùng độ rộng 8 bit, định hướng byte.
TELNET thường được dùng để cung cấp những phiên giao dịch đăng nhập, giữa các máy trên mạng Internet, dùng dòng lệnh có tính định hướng người dùng. Tên của nó có nguồn gốc từ hai chữ tiếng Anh "telephone network" (mạng điện thoại), vì chương trình phần mềm được thiết kế, tạo cảm giác như một thiết bị cuối được gắn vào một máy tính khác.
Đối với sự mở rộng của giao thức, chữ "telnet" còn ám chỉ đến một chương trình ứng dụng, phần người dùng của giao thức - hay còn gọi là trình khách (clients). Trong bao nhiêu năm qua, TELNET vốn được cài đặt sẵn trong hầu hết các hệ điều hành Unix, song với sự tiến triển gần đây của mình, SSH (Secure Shell) trở nên một giao thức có ưu thế hơn trong việc truy cập từ xa, cho các máy dùng hệ điều hành có nền tảng là Unix. SSH cũng được cài đặt sẵn cho hầu hết các loại máy vi tính. Trên rất nhiều hệ thống, chương trình ứng dụng "telnet" còn được dùng trong những phiên giao dịch tương tác TCP ở dạng sơ đẳng (interactive raw-TCP sessions), và còn được dùng để thông nối với những dịch vụ trên các máy chủ POP3, mà không cần đến những trình khách chuyên dụng. Cụm từ tiếng Anh "to telnet" còn được dùng như là một động từ, có nghĩa là "thành lập" hoặc "sử dụng", một kết nối dùng giao thức TELNET, như trong câu "To change your password, telnet to the server and run the passwd command" - (Để đổi mật khẩu của mình, telnet vào máy chủ và chạy dòng lệnh passwd).
Cụm từ trên còn có nghĩa là kết nối, theo thể thức mới, với Telnet Bulletin Board Systems - Hệ thống bảng tin Telnet - (mà một thời chỉ dùng kết nối quay số (dialup), trong những năm giữa 1980 và 1990), là kết nối cho phép sử dụng TCP/IP, cho những người còn luyến tiếc nó, cũng như hỗ trợ tất cả các giao thức nổi tiếng và các giao thức thường được dùng trên mạng Internet hiện nay, như là một bộ máy chủ, đa giao thức, toàn năng.
5. Gopher ( Gopher-server):Tra cứu và lấy tập tin theo danh mục của thực đơn Đây là một dịch vụ cho phép người dùng với chương trình Gopher client truy nhập tới các máy tính dịch vụ Gopher để hiển thị và lấy các thư mục và các tập tin. Dịch vụ Gopher cung cấp giao diện theo thực đơn (menu-based interface) với các nguồn tài nguyên có ở các máy dịch vụ Gopher mà không cần phải phải đưa vào các lệnh thực hiện việc chuyển các thư mục và các tập tin. Về chức năng, dịch vụ Gopher tương tự như dịch vụ FTP, nhưng nó tạo khả năng cho người sử dụng kết nối với các dịch vụ khác bổ xung cho hiển thị và chuyển tải về máy tính của mình các thư mục và tệp. Sự hiển thị hoặc truyền tệp được thực hiện dễ dàng thông qua việc chọn các danh mục trong thực đơn trên phần mềm Gopher Client ở máy tính người dùng. Để dễ dàng kết nối, kiểm tra xem các tệp tin yêu cầu có tồn tại ở các máy dịch vụ Gopher và sau đó chuyển tiếp tới các máy dịch vụ Gopher khác mà người sử dụng quan tâm, tất cả các máy dịch vụ Gopher ở một số điểm nào đó liên kết lại với nhau trong một mạng lớn, gọi là không gian Gopher (Gopherspace). Ví dụ, khi một máy dịch vụ Gopher được được đưa lên mạng Internet, nhà quản trị máy dịch vụ đó gửi thư điện tử cho các nhà bảo trợ phần mềm Gopher ở trường đại học của Minnesota, Mỹ để đưa máy tính dịch vụ của mình vào danh sách tất cả các gopher tọàn cầu trên máy chủ Gopher có tên là gopher.tc.umn.edu. Người sử dụng truy nhập tới máy tính dịch vụ này sẽ lướt nhanh được toàn bộ danh sách các máy dịch vụ gopher trên toàn cầu và tìm ngay được nơi cần kết nốt để lấy tập tin. Máy dịch vụ gopher.tc.umn.edu này trợ giúp rất tốt cho người dùng khi bắt đầu khai thác dịch vụ gopher.
6. WAIS ( Wide Area Information Server): Đây là dịch vụ cho phép người dùng tìm kiếm tất cả tài liệu trên toàn cầu theo một chủ đề nào đó. Người sử dụng phải có chương trình WAIS client chạy trên máy tính của mình để kết nối với máy tính dịch vụ thông tin diện rộng (Wide Area Information Server). Thủ tục tìm kiếm đơn giản: người sử dụng, trên máy tính của mình viết một dòng chủ đề của tài liệu yêu cầu tìm kiếm ở cách hành văn bình thường, và gửi tới WAIS server. WAIS server tiếp nhận yêu cầu và tìm trong CSDL của nó tất cả các tài liệu liên quan đến chủ đề yêu cầu, nếu tìm thấy, nó chuyển lại cho các tài liệu đó các chỉ số, để sau đó người sử dụng dùng để chuuển tải các tài liệu và hiển thị các tài liệu đó trên máy tính của mình.
Một trong những đặc điểm mấu chốt của hệ thống WAIS là khả năng của WAIS server có các chỉ số trỏ tới các WAIS server khác trong không gian WAlS (WAIS space), và người sử dụng có thế chọn lấy một điểm trung tâm trên Internet, tức là chọn một WAIS server nào đó làm điểm bắt đầu tìm kiếm. Ví dụ, nếu muốn tìm tất cả các bài nói chuyện của Tổng thống Clinton ở Atlanta, Georgia, trước hết truy nhập tới CSDL của máy dịch vụ quake.think.com và trên CSDL của máy tính này tìm “Tổng thống Clinton” (Clinton Speechs). Sử dụng tiếp CSDL Speeches để tìm theo “Atlanta Georgia”. Lần tìm kiếm này trả lại kết quả là danh sách một số tài liệu nội dung các bài nói chuyện của tổng thống Clinton ở Atlanta Georgia. Đứng đầu danh sách các tài liệu này này là tài liệu phù hợp với yêu cầu của người sử dụng nhất. Việc còn lại của người dùng là chuyển tài liệu cần từ nguồn về máy của mình và hiển thị nội dung tài liệu. Các tài liệu hình ảnh cũng có thể hiển thị được… CSDL phục vụ cho tìm kiếm cũng được chỉ số hóa để tìm kiếm nhanh. Sự chỉ số hóa giống như cơ chế chỉ số hóa cho các tệp CSDL trong Foxpro, dbase…
7. VOIP ( Voice over Internet Protocol): VoIP (viết tắt của Voice over Internet Protocol, nghĩa là Truyền giọng nói trên giao thức IP) là công nghệ truyền tiếng nói của con người (thoại) qua mạng thông tin sử dụng bộ giao thức TCP/IP. Nó sử dụng các gói dữ liệu IP (trên mạng LAN, WAN, Internet) với thông tin được truyền tải là mã hoá của âm thanh.
Công nghệ này bản chất là dựa trên chuyển mạch gói, nhằm thay thế công nghệ truyền thoại cũ dùng chuyển mạch kênh. Nó nén (ghép) nhiều kênh thoại trên một đường truyền tín hiệu, và những tín hiệu này được truyền qua mạng Internet, vì thế có thể giảm giá thành.
Để thực hiện việc này, điện thoại IP, thường được tích hợp sẵn các nghi thức báo hiệu chuẩn như SIP hay H.323, kết nối tới một tổng đài IP (IP PBX) của doanh nghiệp hay của nhà cung cấp dịch vụ. Điện thoại IP có thể là điện thoại thông thường (chỉ khác là thay vì nối với mạng điện thoại qua đường dây giao tiếp RJ11 thì điện thoại IP nối trực tiếp vào mạng LAN qua cáp Ethernet, giao tiếp RJ45) hoặc phần mềm thoại (soft-phone) cài trên máy tính.
8. VIDEO CONFFRENCE : Video Conference là một phương thức thông tin liên lạc mới, được kết hợp bởi những đặc tính của công nghệ viễn thông và công nghệ thông tin nhằm đem đến cho người sử dụng nhiều tiện ích hơn một cuộc điện thoại bình thường. Về cơ bản Video Conference giống như liên lạc bằng điện thoại nhưng được bổ xung hàng loạt các tiện ích khác như: - Những người đàm thoại có thể nhìn thấy nhau - Cùng chia sẻ dữ liệu trên máy tính như văn bản, bảng tính, cơ sở dữ liệu - Có thể kết nối bằng bất kỳ phương thức nào như: kênh thuê riêng (Leased-Line), ISDN hay IP (Internet Protocol) - Hội nghị truyền hình (video conference) cho phép người dùng (user) ở các địa điểm khác nhau có thể tiến hành trao đổi thông tin về âm thanh và hình ảnh. Phương thức thông tin theo thời gian thực với cả 2 chiều đầy đủ. Các tín hiệu âm thanh và hình ảnh được truyền trực tiếp trên hiện trường trong thời điểm đang xảy ra và không bị một sự hạn chế nào trong việc truyền đạt theo 2 chiều. Có thể nói 2 đặc tính: hai chiều và thời gian thực cho thấy sự khác biệt của Hệ thống hội nghị truyền hình VCS (Video conferencing System) với Hệ thống truyền hình quảng bá TV (Television). - Từ những năm 60 của thế kỷ 20, hội nghị truyền hình đã được nghiên cứu và ứng dụng tại các nước tiên tiến. Đến những năm 1970 hội nghị truyền hình ứng dụng công nghệ số hóa. Đến những năm 1980, công nghệ nén hình ảnh có bước nhảy vọt, kênh truyền tín hiệu hình số ra đời không chiếm nhiều dải thông rộng như kênh truyền hình analog. Với tốc độ truyền thấp hơn 34Mbit/s, tín hiệu hình đã được nén, chất lượng của hình ảnh vẫn thỏa mãn nhu cầu của người dùng. Từ những năm 1990 đến nay công nghệ máy tính và mạng Internet phát triển rất nhanh và có ảnh hưởng tới hệ thống hội nghị truyền hình.
9. WAP ( Wireless Application Protocol): WAP (viết tắt của Wireless Application Protocol - Giao thức Ứng dụng Không dây) là một tiêu chuẩn công nghệ cho các hệ thống truy nhập Internet từ các thiết bị di động như điện thoại di động, PDA, v.v... Mặc dù tiêu chuẩn này chưa được chuẩn hóa trên toàn cầu, nhưng những ứng dụng của giao thức này đã tác động rất lớn đến ngành công nghiệp di động và các lĩnh vực dịch vụ liên quan. WAP là giao thức truyền thông mang lại rất nhiều ứng dụng cho người sử dụng thiết bị đầu cuối di động như E-mail, web, mua bán trực tuyến, ngân hàng trực tuyến, thông tin chứng khoán, v.v...
Với các xu hướng triển khai các ứng dụng vô tuyến băng thông rộng trong mạng NGN, rất nhiều các công nghệ đã được đề xuất để tích hợp và hội tụ các dịch vụ mạng. WAP là một giải pháp công nghệ đem lại nhiều lợi ích cho người sử dụng thiết bị đầu cuối vô tuyến cũng như các gia tăng giá trị của các nhà cung cấp dịch vụ mạng. Tuy nhiên, triển khai WAP là một vấn đề phức tạp và liên quan tới nhiều hướng phát triển công nghệ khác như phần cứng, bảo mật, v.v...
Chép vào và nộp cho cô nào!
|
| |
|
* Viết tiếng Việt có dấu, là tôn trọng người đọc. * Chia sẻ bài sưu tầm có ghi rõ nguồn, là tôn trọng người viết. * Thực hiện những điều trên, là tôn trọng chính mình. -Nếu chèn smilies có vấn đề thì bấm A/a trên phải khung viết bài
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |